Bộ Chính trị xem xét chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao trong năm 2023
Bộ Chính trị xác định đến năm 2025 phấn đấu hoàn thành phê duyệt chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam, khởi công trước hai đoạn ưu tiên và hoàn thành toàn bộ toàn tuyến trước năm 2045…
Tại Kết luận số 49-KL/TW vừa được ban hành, Bộ Chính trị đặt mục tiêu phát triển giao thông vận tải đường sắt hiện đại, đồng bộ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội nhanh, bền vững, đáp ứng mục tiêu đến năm 2045 nước ta là nước phát triển có thu nhập cao. Theo đó, vận tải đường sắt đóng vai trò chủ đạo trên hành lang kinh tế Bắc-Nam, các hành lang vận tải chính Đông-Tây và vận tải hành khách tại các đô thị lớn.
Bộ Chính trị giao Ban Cán sự Đảng Bộ Giao thông vận tải tập trung nghiên cứu, đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện Đề án chủ trương đầu tư xây dựng đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc-Nam trình Bộ Chính trị xem xét, quyết định theo Chương trình làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2023.
ƯU TIÊN KHỞI CÔNG TRƯỚC HAI ĐOẠN HÀ NỘI – VINH, TP.HCM – NHA TRANG
Đề cập đến các mục tiêu cụ thể, Bộ Chính trị xác định đến năm 2025 phấn đấu hoàn thành phê duyệt chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam; khởi công các đoạn ưu tiên trong giai đoạn 2026-2030, đó là: Hà Nội-Vinh; TP. HCM-Nha Trang.
Đến năm 2030 sẽ tập trung cải tạo, nâng cấp, khai thác có hiệu quả các tuyến đường sắt hiện có.
Cùng với đó, tiếp tục triển khai đầu tư các tuyến đường sắt đô thị có nhu cầu vận tải lớn tại Hà Nội, TP.HCM…; phấn đấu khởi công một số tuyến kết nối các cảng biển cửa ngõ quốc tế như: Hà Nội-Hải Phòng, Biên Hoà-Vũng Tàu…, cửa khẩu quốc tế như: Hà Nội-Lào Cai; Hà Nội-Lạng Sơn…; kết nối với cảng hàng không quốc tế: Thủ Thiêm-Long Thành.
Đầu tư tuyến đường sắt vành đai phía Đông khu đầu mối Hà Nội: Ngọc Hồi-Lạc Đạo-Bắc Hồng-Thạch Lỗi; đối với tuyến TP.HCM-Cần Thơ đầu tư bằng phương thức đối tác công-tư (PPP) hoặc phương thức đầu tư khác phù hợp. Ngoài ra, tiếp tục đầu tư hoàn thành tuyến Hà Nội-Hạ Long.
Đến năm 2045, mục tiêu là sẽ hoàn chỉnh mạng lưới đường sắt đô thị tại TP. Hà Nội có tính kết nối với vùng Thủ đô và TP.HCM vào năm 2035. Hoàn thành toàn bộ tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam trước năm 2045.
(Kết luận số 49-KL/TW).
Cùng với đó, đến năm 2045, hoàn thành tuyến đường sắt khu đầu mối Hà Nội, khu đầu mối TP.HCM; tuyến đường sắt kết nối với các đầu mối vận tải có lưu lượng lớn (cảng biển, khu công nghiệp, khu kinh tế), các tỉnh Tây Nguyên; tuyến đường sắt ven biển, đường sắt xuyên Á.
ƯU TIÊN DÙNG VỐN NGÂN SÁCH, ĐẨY MẠNH ĐẦU TƯ THEO PHƯƠNG THỨC PPP
Để đạt được mục tiêu nói trên, Bộ Chính trị yêu cầu đổi mới tư duy trong lãnh đạo, chỉ đạo, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, doanh nghiệp và người dân về vai trò, vị trí, lợi thế của phương thức giao thông vận tải đường sắt, tạo sự thống nhất, quyết tâm cao trong phát triển giao thông vận tải đường sắt.
Cụ thể hoá các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển đường sắt đồng bộ với phát triển ngành giao thông vận tải. Hoàn thiện các cấp độ quy hoạch giao thông vận tải đường sắt trong tổng thể quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng để định hướng bố trí nguồn lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bên cạnh đó, “sẽ hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách ưu đãi, tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển giao thông vận tải đường sắt”, Bộ Chính trị nêu rõ.
Ban hành cơ chế, chính sách pháp luật về sử dụng đất cho xây dựng kết cấu hạ tầng đường sắt và cho thuê kết cấu hạ tầng đường sắt.
Nghiên cứu, ban hành các cơ chế, chính sách, giải pháp phù hợp để tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến trình đầu tư các tuyến đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị. Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn, định mức chuyên ngành đường sắt.
Trong thời gian tới, các cơ quan chức năng sẽ ưu tiên bố trí nguồn lực trong kế hoạch đầu tư công trung hạn, nguồn tăng thu, tiết kiệm chi hằng năm, khai thác hiệu quả nguồn lực từ quỹ đất, nguồn lực ngoài ngân sách cho phát triển giao thông vận tải đường sắt.
Cùng với đó, “đa dạng hoá nguồn vốn, các hình thức, phương thức đầu tư các dự án đường sắt, đẩy mạnh đầu tư theo phương thức đối tác công-tư, gồm: hợp đồng BT, BOT, BTO, TOD…”, kết luận số 49-KL/TW nêu.
Các cơ quan chức năng sẽ nghiên cứu xây dựng và ban hành chính sách về nhượng quyền khai thác một phần kết cấu hạ tầng đường sắt để thu hồi vốn các công trình được đầu tư từ vốn vay, kể cả vốn ODA và vốn trái phiếu chính phủ.
Chú trọng công tác quy hoạch các khu đô thị, khu công nghiệp gắn kết với các tuyến, khu ga đường sắt để tạo ra không gian phát triển mới, nâng cao năng lực cạnh tranh, phát huy hiệu quả trong huy động vốn, khai thác, vận tải đường sắt.
Củng cố, nâng cao năng lực doanh nghiệp vận tải đường sắt, gắn với đẩy mạnh xã hội hoá, cổ phần hoá, thoái vốn trong kinh doanh vận tải, dịch vụ hỗ trợ vận tải đường sắt; thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phương tiện, các công trình hỗ trợ cho hoạt động vận tải đường sắt.
Cũng tại Kết luận số 49, Bộ Chính trị giao Ban Cán sự Đảng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và triển khai thực hiện quy hoạch phát triển mạng lưới đường sắt, các dự án trọng điểm lĩnh vực đường sắt; đề xuất xây dựng các chính sách phù hợp, ưu tiên bố trí nguồn lực thực hiện các nội dung đã nêu trong Kết luận; chỉ đạo rà soát, bổ sung, hoàn thiện các văn bản thuộc thẩm quyền có liên quan đến phát triển giao thông vận tải đường sắt.